Khu Bảo Tồn Động Vật Hoang Dã Và Rừng Mưa Amazon

Khu Bảo Tồn Động Vật Hoang Dã Và Rừng Mưa Amazon

Bảo tồn động vật hoang dã là việc thực hành bảo vệ các loài động vật hoang dã và môi trường sống của chúng. Mục tiêu của việc này là để đảm bảo rằng giới tự nhiên sẽ được bảo vệ để che chở cho các thế hệ tương lai và giúp loài người nhận ra tầm quan trọng của động vật hoang dã và môi trường hoang dã đối với con người và các loài khác nhau trên hành tinh này.

Dự án VFBC: Bảo tồn và tái hoang dã một số loài động vật hoang dã trọng điểm ở Việt Nam

DALN Từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 3 năm 2023, tại Hà Nội, Dự án Quản lý rừng bền vững và Bảo tồn đa dạng sinh học (VFBC) do USAID tài trợ, đã phối hợp với Tổng cục Lâm nghiệp, Tổ chức WWF-Việt Nam tổ chức Hội thảo về Bảo tồn loài với sự tham gia của hơn 100 đại biểu đến từ các đơn vị Nhà tài trợ USAID, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ban quản lý dự án VFBC các cấp, các Ban quản lý rừng nơi thực hiện Dự án VFBC các Trường Đại học, các tổ chức, chuyên gia bảo tồn trong nước và quốc tế.

Với diện tích rừng tự nhiện hiện trên 10 triệu ha, độ che phủ lên tới 42%, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học cao ở khu vực Đông Nam Á và thế giới. Theo báo cáo Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho đến nay, Việt Nam đã ghi nhận được khoảng 50.000 loài sinh vật, trong đó hơn 20.000 loài thực vật, khoảng 3.000 loài cá, hơn 1.000 loài chim và trên 300 loài thú. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, tính đa dạng sinh học, đặc biệt là một số loài động vật nguy cấp, quý hiếm ở Việt Nam đã bị đe dọa tuyệt chủng bởi các mối đe dọa như săn bắt sử dụng trái phép, mất môi trường sống hoặc môi trường sống bị tác động và suy giảm. Đây là nhu cầu thực tế đặt ra cho công tác bảo tồn, tái thả, chuyển dời và tái hoang dã tại Việt Nam.

Trong những năm gần đây, tái hoang dã được xác định là một cách tiếp cận bao gồm các hoạt động phục hồi và bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên, tái thả các loài bản địa và thúc đẩy các quá trình hệ sinh thái. Bằng cách đó, tái hoang dã có thể giúp khôi phục đa dạng sinh học, cải thiện các chức năng và dịch vụ hệ sinh thái, và đồng thời tăng cường khả năng phục hồi của hệ sinh thái đối với các tác nhân gây căng thẳng môi trường và biến đổi khí hậu.

Tái hoang dã là quá trình khôi phục một hệ sinh thái tự nhiên sau khi chịu sự xáo trộn mạnh mẽ từ con người. Quá trình này bao gồm việc phục hồi các quy trình tự nhiên và toàn bộ hoặc gần như toàn bộ chuỗi thức ăn ở tất cả các cấp độ dinh dưỡng để tạo ra một hệ sinh thái tự duy trì và có tính bền vững cao, sử dụng quần thể sinh vật có thể đã hiện hữu nếu không có sự xáo trộn của con người.

Tái hoang dã nhằm mục tiêu xây dựng lại các hệ sinh thái hoạt động, phục hồi các dịch vụ hệ sinh thái, thu giữ các-bon, an ninh lương thực và nguồn nước, cải thiện sức khỏe và chất lượng cuộc sống, đảo ngược quá trình suy giảm đa dạng sinh học.

Thực trạng công tác bảo tồn các loài động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã có những quan tâm nhất định đến công tác bảo tồn đa dang sinh học thông qua những văn bản pháp lý cụ thể như: Chương trình quốc gia về bảo tồn hổ giai đoạn 2014 - 2022, Kế hoạch hành động khẩn cấp đến năm 2010 để bảo tồn voi ở Việt Nam, Đề án “Tổng thể bảo tồn voi Việt Nam giai đoạn 2013 - 2025”, Kế hoạch hành động bảo tồn rùa biển Việt Nam giai đoạn 2016 - 2025, Chương trình bảo tồn các loài rùa nguy cấp của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn 2030, Kế hoạch hành động khẩn cấp bảo tồn các loài linh trưởng ở Việt Nam đến năm 2025 tầm nhìn 2030.

Đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã và đang có những chương trình/kế hoạch bảo tồn riêng lẻ cho 32 loài có kế hoạch bảo tồn do trung ương và địa phương ban hành gồm linh trưởng (19 loài), vạc hoa, hổ, voi, trĩ sao, rùa (10 loài) và gà lôi lam mào trắng.

Quá trình triển khai thực hiện các chương trình bảo tồn hiện đang gặp phải những khó khăn như thiếu các kế hoạch bảo tồn loài đã khiến cho nhiều loài động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm bị bỏ quên trong công tác điều tra, nghiên cứu, bảo vệ và phát triển quần thể, từ đó dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng cao hơn như các loài trong lớp chim, các loài thú móng guốc và thú ăn thịt; năng lực của cán bộ kỹ thuật ở các Ban quản lý rừng còn hạn chế; thiếu kinh phí hoặc kinh phí thấp.

Đóng góp của Dự án VFBC vào việc thể chế hóa công tác bảo tồn và tái hoang dã các loài động vật hoang dã tại Việt Nam

Xác định được tầm quan trọng của hoạt động tái hoang dã, tại Hà Nội từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 3 năm 2023 Dự án VFBC đã phối hợp với Tổng cục Lâm nghiệp, Tổ chức WWF-Việt Nam tổ chức Hội thảo “Bảo tồn loài”. Tại Hội thảo, các chuyên gia hàng đầu đến từ các tổ chức quốc tế như Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), Re:wild, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Lâm nghiệp, Đại học Huế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, đã tập trung thảo luận về việc xây dựng kế hoạch bảo tồn loài, giới thiệu và chia sẻ các khái niệm và bài học kinh nghiệm trong công tác tái thả, chuyển dời và tái hoang dã loài, cũng như xây dựng kế hoạch tái thả đối với một số loài động vật trọng điểm ở Việt Nam.

Hội thảo cũng thảo luận sâu để xây dựng được những kế hoạch, hướng dẫn kỹ thuật đáp ứng đối với nhu cầu tái thả, chuyển dời và tái hoang dã loài cho 14 loài động vật hoang dã trọng tâm trong vùng Dự án gồm:

Quỹ bảo tồn loài của Dự án VFBC dành một khoản ngân sách lên tới 1 triệu USD để hiện thực hóa công tác bảo tồn thông qua các tổ chức bảo tồn trong nước, mỗi Dự án bảo tồn loài được tài trợ kinh phí lên tới 50.000 USD. Ngày 13 tháng 2 vừa qua tại Hà Nội, Dự án đã tổ thức Lễ trao giải cho 03 đơn vị đầu tiên gồm: (i) Tổ chức PanNature, với Dự án “Bảo tồn loài cá nước ngọt cực kỳ nguy cấp (Schistura spiloptera) ở Vườn quốc gia Bạch Mã và rừng phòng hộ Bắc Hải Vân, tỉnh Thừa Thiên Huế”; (ii) Trung tâm Bảo tồn Thiên nhiên và Phát triển (CCD) với Dự án “Bảo tồn loài Vượn đen má trắng (Nomascus leucogenys) tại Vườn quốc gia Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh; (iii) Trung tâm Bảo tồn Đa dạng sinh học Nước Việt Xanh (GreenViet) với Dự án “Bảo tồn loài Chà vá chân xám (Pygathrix cinerea) tại Vườn quốc gia Sông Thanh, tỉnh Quảng Nam.

Trong thời gian tới, các tổ chức bảo tồn trong nước quan tâm đến Quỹ bảo tồn loài của Dự án có thể liên hệ theo địa chỉ email: [email protected] để được hỗ trợ.

Hội thảo này cũng là cơ hội cho các bên tham gia nhìn nhận và cam kết mạnh mẽ hơn nữa đối với công tác bảo tồn các loài động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm tại Việt Nam. Thông qua hoạt động hội thảo này, Dự án hy vọng với sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường) có được những thông tin hữu ích phục vụ cho công tác dự thảo Kế hoạch hành động bảo tồn động vật nguy cấp, quý, hiếm bị đe dọa tuyệt chủng ở Việt Nam giai đoạn 2023 - 2035 trình Chính phủ Việt Nam ban hành trong thời gian tới.

Công tác bảo tồn các loài động vật hoang dã tại Việt Nam trong thời gian tới

Thực tế cho thấy tại Việt Nam chưa có một chương trình/kế hoạch mang tính tổng thể được Chính phủ ban hành về công tác bảo tồn các loài động vật hoang dã dẫn tới việc các địa phương, chủ rừng gặp khó khăn, lúng túng trong các công tác bảo tồn đối trên địa bàn của mình quản lý.

Trong năm 2023, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ phối hợp để trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch bảo tồn tổng thể các loài động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm ở Việt Nam giai đoạn 2023 - 2035. Nội dung của bản Kế hoạch sẽ ưu tiên giải quyết những vấn đề chính như (i) rà soát thông tin về quần thể, phân bố làm căn cứ cho việc lập kế hoạch bảo tồn chi tiết; (ii) xây dựng các kịch bản cho những loài có số lượng ít, quần thể đơn lẻ hoặc cực kỳ nguy cấp để có các biện pháp quản lý, can thiệp và ứng phó; (iii) các nỗ lực bảo tồn tại chỗ: tăng cường quản lý sinh cảnh, chống săn bắt, giảm cầu; (iv) ưu tiên các hoạt động can thiệp chủ động với quần thể nhỏ, bị tách biệt: di chuyển, tái thả, nhân giống; ưu tiên các hoạt động nhân nuôi, hoang hóa, tái phục hồi cho các loài đã bị tuyệt chúng, hoặc tuyệt chủng về mặt sinh thái, tăng cường các hoạt động nghiên cứu về dịch bệnh ở động vật hoang dã và quản lý lây nhiễm; (v) xây dựng cơ chế huy động nguồn lực, xã hội hóa công tác bảo tồn, đầu tư cho đa dạng sinh học.

Đây được coi là công cụ pháp lý để tháo gỡ nút thắt ban đầu cho các chủ rừng cũng như các nhà bảo tồn trong thời gian tới để thực hiện công tác bảo tồn các loài động vật hoang dã tại Việt Nam được nâng cao, đạt hiệu quả.

Tọa đàm “Du lịch có trách nhiệm gắn với bảo tồn thiên nhiên và động vật hoang dã do Vườn Quốc gia Cát Tiên – thành viên mạng lưới Sáng kiến Điểm đến An toàn phối hợp với Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) tổ chức. Hoạt động lần này nằm trong Hợp phần Bảo tồn đa dạng sinh học, Dự án Quản lý rừng bền vững và Bảo tồn đa dạng sinh học (VFBC) do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ.

Hiện nay có khoảng 30% khách đi du lịch có hành vi tiêu thụ động vật hoang dã. Do vậy để thay đổi hành vi tiêu thụ này, các công ty du lịch, lữ hành, vận tải đóng vai trò quan trọng để ngăn chặn hành vi này, bà Nguyễn Thúy Hằng, đại diện WWF nhấn mạnh.

Du lịch có trách nhiệm gắn với bảo tồn thiên nhiên và động vật hoang dã là nền tảng để phát triển du lịch bền vững. Do đó ngoài doanh nghiệp, các công ty du lịch, lữ hành mà từ chính khách du lịch và cộng đồng dân cư phải thay đổi nhận thức về tập tục sinh hoạt, thay đổi nhu cầu của khách du lịch về săn lùng các loại động vật hoang dã làm nhu cầu thực phẩm, làm vật trang trí, lưu niệm. Từ đó giúp nâng cao nhận thức bảo tồn động vật hoang dã, giảm cầu tiêu thụ thịt động vật hoang dã trái phép.

Việt Nam được xếp thứ 16 trong 25 quốc gia có mức độ đa dạng sinh học hàng đầu thế giới. Cả nước hiện có 34 vườn quốc gia, 66 khu dự trữ thiên nhiên, 18 khu bảo tồn loài và sinh cảnh, 56 khu bảo vệ cảnh quan và 9 đất ngập nước được công nhận là khu Ramsar thế giới.

Ông Hoàng Hoa Quân, Phó trưởng phòng Quản lý lữ hành, Cục Du lịch Quốc gia chia sẻ, để du lịch có trách nhiệm gắn với bảo tồn động vật hoang dã và thiên nhiên, các hoạt động du lịch phải vừa góp phần phát triển kinh tế, vừa tạo sinh kế và thu nhập cho cộng đồng. Ngoài ra các hoạt động du lịch phải góp phần bảo vệ các giá trị di sản, bảo tồn các hệ sinh thái, giảm xả thải trực tiếp ra môi trường tự nhiên.

Nằm trong hệ thống khu bảo tồn có hệ sinh thái phong phú và tính đa dạng sinh học. Vườn Quốc gia Cát Tiên là điểm đến hút khách du lịch, trong 7 tháng đầu năm 2023, Cát Tiên đón gần 55.000 lượt khách. Do đó bên cạnh hoạt động bảo tồn và cứu hộ động vật hoang dã, nơi đây còn trở thành khu giáo dục môi trường để mỗi du khách đến đây được tìm hiểu thiên nhiên và từ đó thay đổi cách ứng xử với môi trường.

Theo ông Nguyễn Đình Quốc Việt, Phó Giám đốc Trung tâm Du lịch, Vườn Quốc gia Cát Tiên, việc cân bằng phát triển du lịch và bảo tồn đa dạng sinh học luôn được Vườn Quốc gia Cát Tiên chú trọng. “Hoạt động du lịch ở đây được đảm bảo bằng các quy chế quản lý du khách bao gồm các quy định về xử lý rác thải, quản lý tiếng ồn tại các khu vực và điểm đến không làm ảnh hưởng động vật hoang dã và môi trường, quản lý số lượng khách tham quan với nhiều trạm kiểm lâm và cán bộ tuần tra bảo vệ”, ông Việt trình bày.

Tại buổi tọa đàm, gần 40 doanh nghiệp, công ty du lịch trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và vùng lân cận đã ký cam kết chung tay bảo tồn động vật hoang dã với các hành động không tiêu thụ, mua bán, biếu tặng các sản phẩm động vật hoang dã, không tham gia cung cấp, tàng trữ, nuôi nhốt, vận chuyển động vật hoang dã. Ngoài ra các doanh nghiệp giữ vai trò truyền tải thông điệp bảo tồn động vật hoang dã đến du khách và nhân viên của mình.

Cũng trong tọa đàm ông Võ Hồng Văn, Ủy viên Ban biên tập, Thư ký tòa soạn Tạp chí Kinh tế Sài Gòn đã trao biểu trưng Sáng kiến Điểm đến An toàn cho Vườn Quốc gia Cát Tiên. Đây là hoạt động nhằm đánh dấu và ghi nhận những hoạt động tích cực của Vườn Quốc gia Cát Tiên đang làm vì mục tiêu hướng đến du lịch xanh, an toàn và bền vững.

Your browser does not support the video tag.

Video: Chương trình Sáng kiến Điểm đến An toàn đồng hành cùng Vườn Quốc gia Cát Tiên phát triển ngành du lịch xanh, an toàn và bền vững.

(HNM) - Động vật hoang dã là một bộ phận không thể thiếu trong lớp sinh quyển mà con người là một mắt xích quan trọng cho chuỗi chuyển hóa sinh học. Bảo tồn động vật hoang dã còn thúc đẩy sự phát triển toàn diện của xã hội, duy trì sự đa dạng sinh học và gìn giữ nguồn tài nguyên quý giá cho nhân loại. Để làm rõ hơn vấn đề này, phóng viên Báo Hànộimới đã có cuộc trao đổi với Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm (Sở NN&PTNT Hà Nội) Lê Minh Tuyên.

- Ông có thể cho biết, hiện nay tình trạng buôn bán trái phép động vật hoang dã ở Hà Nội diễn ra như thế nào và có ảnh hưởng ra sao đến đa dạng sinh học?

- Trong những năm gần đây, kinh tế phát triển mạnh mẽ, cùng với đó, nhu cầu sử dụng trái phép sản phẩm các loài động vật hoang dã tại Hà Nội ngày một tăng. Với vị trí địa lý và giao thông thuận lợi nên tình hình buôn bán, vận chuyển các loài động vật hoang dã trên địa bàn thành phố diễn ra rất phức tạp. Cụ thể, trong 5 năm qua, lực lượng chức năng của thành phố, trung ương tịch thu, bắt giữ 76 vụ buôn bán, vận chuyển trái phép động vật hoang dã, trong đó có những động vật hoang dã quý hiếm như: Hổ, rái cá, gấu, rùa vàng…, với tổng số tiền xử phạt gần 1,1 tỷ đồng. Ngoài ra, tính đến hết tháng 8-2022, trên địa bàn thành phố đang quản lý 227 cơ sở nuôi động vật hoang dã với 64.365 cá thể; cơ quan chức năng đã cấp cho 153 cơ sở mã số nuôi động vật hoang dã.

Trên thế giới có khoảng 15 triệu loài sinh vật, mỗi loài đều nằm trong một mắt xích hoặc nhiều mắt xích quan trọng của chuỗi thức ăn tự nhiên. Sự biến mất của một loài sẽ dẫn đến sự thay đổi toàn bộ cấu trúc đã diễn ra theo quy luật của hàng chục triệu năm nay. Một số loài chủ chốt trong thế giới tự nhiên biến mất cũng đồng nghĩa với nguy cơ biến mất của những loài lân cận. Vì thế, bảo vệ sự tồn tại của thế giới động vật cũng là bảo vệ sự đa dạng về loài, cá thể trong loài, bởi suy cho cùng đó chính là bảo vệ môi trường sinh thái.

- Trong Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Chính phủ ban hành có những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp gì để bảo tồn các loài động vật hoang dã nguy cấp, thưa ông?

- Chiến lược đề ra mục tiêu là cần phải bảo tồn hiệu quả các loài hoang dã, đặc biệt là loài nguy cấp, quý hiếm. Trong đó, chiến lược đặt ra những chỉ tiêu rất cụ thể như đến năm 2030 phải cải thiện được tình hình của tối thiểu 10 loài đang bị đe dọa, không có thêm loài nguy cấp nào bị tuyệt chủng… Chiến lược cũng đề ra các nội dung chủ yếu thực hiện, thúc đẩy công tác bảo tồn các loài hoang dã, nhất là các loài động vật hoang dã nguy cấp bằng các biện pháp điều tra, đánh giá và liên tục cập nhật, công bố danh mục các loài nguy cấp, quý hiếm để có biện pháp bảo tồn. Chẳng hạn, tăng cường thiết lập hệ thống cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học, những mạng lưới trung tâm cứu hộ, thực hiện các giải pháp để giảm mối đe dọa tới các loài động vật hoang dã.

- Hiện nay, thành phố Hà Nội đang thực hiện Chỉ thị số 04/CT-TTg ngày 17-5-2022 của Thủ tướng Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách để bảo tồn các loài chim hoang dã, di cư tại Việt Nam, như thế nào?

- Nhận thức trước thực trạng săn bắt, bẫy các loài chim hoang dã, di cư trên địa bàn thành phố, đặc biệt dọc hai bên sông Hồng diễn ra phức tạp và cần phải có các biện pháp bảo tồn, bảo vệ các loài chim hoang dã, di cư, từ năm 2020, Chi cục Kiểm lâm Hà Nội đã xây dựng đề án bảo tồn các loài động vật hoang dã có nguồn gen quý hiếm, trong đó có nhiệm vụ bảo tồn các loài chim hoang dã, di cư dọc hai bên sông Hồng (nơi có nhiều loài chim hoang dã, di cư trú ngụ).

Thực hiện Chỉ thị số 04/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Chi cục Kiểm lâm tham mưu Sở NN&PTNT trình UBND thành phố Hà Nội ban hành 2 văn bản chỉ đạo các sở, ngành, UBND các quận, huyện, thị xã tăng cường công tác quản lý, bảo vệ các loài động vật hoang dã. Chi cục Kiểm lâm xác định, đây là nhiệm vụ cần thiết, thường xuyên và luôn chủ động trong công tác bảo tồn, bảo vệ các loài động vật hoang dã nói chung và các loài chim hoang dã, di cư nói riêng để bảo tồn sự đa dạng sinh học trên địa bàn thành phố.

- Hà Nội sẽ thực hiện các giải pháp nào để thúc đẩy hiệu quả công tác bảo tồn động vật hoang dã và sự đa dạng sinh học, thưa ông?

- UBND thành phố chỉ đạo các sở, ngành, UBND các quận, huyện, thị xã chủ động, tích cực thực hiện công tác bảo tồn, bảo vệ các loài động thực vật hoang dã và sự đa dạng sinh học; đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến các quy định của pháp luật về bảo vệ các loài động vật hoang dã, sự đa dạng sinh học cho người dân, học sinh, chủ các nhà hàng, khách sạn, cửa hàng lưu niệm, người dân tại các khu chợ bán chim cảnh… trên địa bàn thành phố.

Thành phố chỉ đạo Chi cục Kiểm lâm tăng cường công tác quản lý địa bàn, giám sát chặt chẽ việc nuôi nhốt động vật; không để người dân lợi dụng việc gây nuôi nhằm buôn bán động vật hoang dã trái phép; chỉ đạo các đơn vị tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát để kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi vi phạm, xử lý nghiêm theo quy định pháp luật các đối tượng vi phạm. UBND thành phố cũng tăng cường phối hợp với các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học trong công tác bảo tồn động vật hoang dã, tạo sự đa dạng sinh học.

Bên cạnh đó, bảo vệ động vật hoang dã không chỉ cần sự tham gia tích cực của cơ quan quản lý nhà nước mà cần có sự vào cuộc của nhiều bên liên quan như các tổ chức phi chính phủ, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan đoàn thể và từng người dân. Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học, mỗi cá nhân cần thay đổi hành vi ứng xử của mình, góp phần bảo vệ sự đa dạng sinh học và môi trường ngày một tốt hơn.

1. Rừng nhiệt đới Tarkine, Tasmania

Hướng dẫn viên du lịch sẽ đi cùng bạn đến khu bảo tồn hoang dã này

Khu rừng nguyên sinh này hầu như chưa bị thế giới hiện đại chạm tới, vẫn giữ nguyên vẻ cổ xưa và bao bọc quanh nó là nhiều truyền thuyết kỳ bí. Khu rừng nằm ở góc phía Tây Bắc của Tasmania và thường được gọi là “vùng hoang dã bị lãng quên”.