Nguyên Nhân Của Việc Khai Thác Tài Nguyên Biển Quá Mức

Nguyên Nhân Của Việc Khai Thác Tài Nguyên Biển Quá Mức

Những cánh rừng ngập mặn nguyên sinh hầu như không còn. Ảnh: ITN

Tài nguyên du lịch và những đặc điểm phân loại khai thác

1. Tài nguyên du lịch bao gồm những gì?

Tài nguyên du lịch bao gồm rất nhiều yếu tố từ tự nhiên, kinh tế, xã hội. Tài nguyên du lịch dùng để chỉ chung cảnh quan thiên nhiên, các di tích văn hóa, lịch sử… hoặc các công trình văn hóa khác có thể khai thác du lịch.

Bên cạnh đó, hiểu về tài nguyên du lịch, người ta còn có thể hiểu là tất cả những gì có thể khai thác để phát triển du lịch, nó là mọi thứ xung quanh chúng ta, bất cứ điều gì cũng có thể là tài nguyên du lịch.

2. Phân loại tài nguyên du lịch

Để có thể tận dụng và phát triển tối đa các tài nguyên du lịch thì việc phân loại là vô cùng cần thiết. Việc phân loại giúp tìm ra đặc điểm chung và riêng của mỗi loại, từ đó có hướng đi riêng. việc phân loại cũng chỉ ra điểm mạnh để đầu tư và những điểm hạn chế để khắc phục. Tài nguyên du lịch được chia thành 3 loại:

Ngoài ra, theo góc độ nghiên cứu của các nhà khoa học, tài nguyên du lịch có thể chia thành 2 dạng là tài nguyên du lịch hiện thực và tiềm năng còn chưa khai phá.

3. Đặc điểm của tài nguyên du lịch

Như đã nói ở trên, muốn sử dụng và phát triển được, những người làm du lịch cần phải hiểu rõ về tài nguyên du lịch. Mà điều đầu tiên để hiểu được tài nguyên du lịch đó là nắm được đặc điểm của nó. Tài nguyên du lịch, ngay từ tên gọi thôi đã có thể nêu bật lên đặc điểm giao thoa giữa tài nguyên nói chung và cả ngành du lịch nói riêng.

Một số loại tài nguyên du lịch được khai thác bởi nhiều ngành kinh tế xã hội khác nhau. Với mỗi ngành kinh tế khác nhau, tài nguyên du lịch sẽ được khai thác ở những khía cạnh khác nhau để đem lại lợi nhuận.

Tài nguyên du lịch không mang tính bất biến mà luôn mang sự biến đổi theo thời gian, không gian, tình hình kinh tế xã hội… Đặc biệt, khi tiến hành khai thác, dưới bàn tay của con người, sự thay đổi của tài nguyên còn trở nên rõ ràng hơn.

Để khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch cần nhiều yếu tố tác động. Đây hoàn toàn là vấn đề cơ bản, vì dù phát triển du lịch hay khai thác tài nguyên nói riêng đều cần sự tham gia phối hợp của nhiều bên. Các yếu tố như kinh tế chính trị xã hội cũng góp phần tác động không nhỏ.

Tài nguyên du lịch vô cùng phong phú, trên nhiều khía cạnh, không gian, loại hình,... Thậm chí, qua sự sáng tạo của con người tài nguyên du lịch còn đa dạng hơn bởi sự kết hợp nhiều loại khác nhau.

Tài nguyên du lịch khác với các loại tài nguyên khác đó là có thể tái tạo được. Sự tái tạo giúp tài nguyên du lịch phát triển và có thể thích ứng với điều kiện xã hội tốt hơn

Tài nguyên du lịch thuộc quyền quản lý của nhà nước nhưng lại có tính sở hữu chung ai cũng có thể tận dụng những tài nguyên này để tiến hành khai thác, làm kinh tế

Muốn khai thác tài nguyên du lịch hiệu quả cần chú ý đến yếu tố địa lý. Sự thuận tiện hàng đầu trong khai thác tài nguyên du lịch chính là khoảng cách địa lý, sự thuận tiện về giao thông…

Với một số loại tài nguyên du lịch, việc khai thác sẽ mang tính thời vụ bởi tính chất mùa vụ của tài nguyên. Ví dụ như những tài nguyên về mặt khí hậu, sự biến đổi của thiên nhiên,...

Khai thác tài nguyên du lịch còn dựa vào trình độ của người làm du lịch. Khai thác được nhiều, gia tăng lợi ích từ tài nguyên như thế nào còn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tư duy của những người làm du lịch.

Tài nguyên du lịch mang tính lịch sử. Sự phát triển, suy tàn, tồn tại, hồi sinh,... của tài nguyên du lịch luôn song hành cùng quá trình phát triển của con người. Cụ thể đó là sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển của tài nguyên du lịch lên tầm cao mới.

Như vậy, để khai thác tốt tài nguyên du lịch, việc tìm hiểu về nó là vô cùng quan trọng. Nắm bắt được những đặc điểm của tài nguyên du lịch là bước đầu để đầu tư vào ngành du lịch.

Quá trình thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Nhận thức về vị trí, vai trò của biển đảo đối với phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia được nâng cao; chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững; hệ thống kết cấu hạ tầng vùng biển, ven biển, đảo đã được quan tâm đầu tư xây dựng...

Thời gian qua, dưới áp lực phát triển kinh tế-xã hội và nhiều nguyên nhân khác nhau đã khiến cho môi trường biển Việt Nam phải đối mặt với hàng loạt vấn đề.

Tuy nhiên, thời gian qua, dưới áp lực phát triển kinh tế-xã hội và nhiều nguyên nhân khác nhau đã khiến cho môi trường biển Việt Nam phải đối mặt với hàng loạt vấn đề như: Suy thoái cảnh quan, hệ sinh thái biển và ven biển; ô nhiễm môi trường biển ven bờ; sự cố môi trường biển; mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng tài nguyên, không gian biển giữa các ngành, các bên có liên quan. Chất thải rắn sinh hoạt ở vùng ven biển Việt Nam ngày càng gia tăng từ các hoạt động kinh tế-xã hội như nguồn thải công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng, du lịch, sinh hoạt, y tế… gây ô nhiễm trên diện rộng ở các vùng bờ biển.

Do ô nhiễm môi trường biển, các hệ sinh thái vùng bờ bị suy giảm, nhất là các hệ sinh thái rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển. Trong 15 năm trở lại đây, khoảng từ 15% đến 20% diện tích các rạn san hô bị mất, tập trung chủ yếu ở các vùng có dân cư sinh sống như Vịnh Hạ Long, các tỉnh, thành phố ven biển miền trung. Sự suy giảm diện tích, những tổn thương của nhiều rạn san hô đã làm suy giảm đa dạng sinh học và chất lượng môi trường biển; làm mất sinh kế của cộng đồng vùng ven biển, gây thiệt hại không nhỏ cho ngành du lịch biển, thủy sản.

Để từng bước giảm tác động của ô nhiễm môi trường biển đến phát triển kinh tế-xã hội, hưởng ứng Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam (từ ngày 1 đến 8/6), với chủ đề “Quản lý, sử dụng bền vững không gian biển” và Ngày Đại dương thế giới (8/6) năm 2024, các bộ, ngành, chính quyền các địa phương cần tập trung tuyên truyền về quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, luật pháp quốc tế về biển, đảo; các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam trên biển; vị trí, vai trò, tầm quan trọng của biển, đảo và đại dương cũng như tài nguyên, môi trường biển, đảo; phát triển bền vững về kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo tồn biển.

Các ngành, địa phương cần nâng cao hơn nữa công tác quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả, công bằng, bền vững tài nguyên biển, hải đảo; bảo vệ, duy trì và phục hồi đa dạng sinh học biển, ven biển và hải đảo; khai thác, đánh bắt thủy sản an toàn, bền vững, đúng pháp luật gắn với bảo vệ môi trường…

Về lâu dài, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật nhằm tạo lập được hành lang pháp lý về quản lý môi trường biển đồng bộ, thống nhất. Sớm ban hành quy hoạch không gian biển quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2050 bởi đây là công cụ quan trọng để cụ thể hóa “Quy hoạch tổng thể quốc gia” và tạo lập cơ sở cho quản lý các hoạt động khai thác sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo tồn các hệ sinh thái biển một cách hiệu quả.

Mặt khác, chúng ta cần bảo đảm đủ nguồn nhân lực, trang thiết bị, tài chính để thực hiện tốt các điều ước quốc tế về môi trường biển mà Việt Nam đã cam kết; tổ chức xây dựng các chương trình, dự án có phạm vi và quy mô trung bình đến quy mô lớn có tác động đến chính sách quản lý môi trường biển, trong đó giải quyết được nhiều vấn đề có tính chất đa ngành, lĩnh vực và liên vùng, xuyên biên giới hiện nay.

Du lịch nông thôn (Rural Tourism) được định nghĩa là loại hình du lịch diễn ra ở khu vực nông thôn, với quy mô kinh doanh nhỏ, không gian mở, được tiếp xúc trực tiếp và hòa mình vào thiên nhiên, gắn với những đặc điểm tiêu biểu ở khu vực nông thôn, những di sản văn hóa xã hội và văn hóa truyền thống ở làng xã...; thể hiện đặc tính đa dạng về môi trường, kinh tế, lịch sử, địa điểm của mỗi vùng nông thôn.

Bà Ngô Thị Thu Trang, Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển Nông thôn - Saemaul Undong, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP.HCM cho biết: Ở giai đoạn đầu, Chương trình Quốc gia ‘Mỗi xã một sản phẩm’ (OCOP) đã đạt được những thành tựu cơ bản, về số lượng sản phẩm, quy mô và sự đồng thuận tham gia ở các địa phương, song hiện nay rất cần sự kết nối để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm.

Tuy nhiên việc kết nối tiêu thụ sản phẩm phải mang ý nghĩa, giá trị trong từng sản phẩm OCOP như đúng với ý nghĩa chương trình, đó là hồn quê, là giá trị đặc sắc của mỗi địa phương, “mỗi làng một sản phẩm”. Nếu những giá trị đó được thể hiện qua ẩm thực, qua quà tặng, qua các sản phẩm nông sản địa phương để giới thiệu cho khách du lịch sẽ đạt được mục tiêu kép, vừa phát triển du lịch, vừa giúp tiêu thụ sản phẩm nông sản tốt hơn”.

“Nếu không có các hoạt động tạo thu nhập ở vùng nông thôn thì các dòng di dân từ nông thôn lên đê thị càng mạnh mẽ. Khi du lịch nông thôn phát triển sẽ có thêm việc làm cho giới trẻ, để họ có những ý tưởng sáng tạo, tận dụng chính những cảnh sắc làng quê thanh bình, những nét văn hoá đa dạng, những sản phẩm nông nghiệp phong phú để đẩy mạnh phát triển du lịch nông nghiệp-nông thôn. Điều quan trọng của du lịch nông thôn là kết nối giá trị kinh tế, giá trị văn hóa và giá trị nhân văn cũng như giải quyết những vấn đề di dân và vấn đề nâng coa thu nhập nông thôn hiện tại đang được quan tâm”, bà Ngô Thị Thu Trang nhấn mạnh.

Thực tế thời gian qua, các hoạt động du lịch nông thôn đã tạo “không gian” quảng bá, tiêu thụ sản phẩm OCOP, đồng thời, phát huy và lan tỏa các giá trị về chất lượng, văn hóa, tri thức bản địa của từng địa phương.

Từ góc nhìn của nhà lữ hành, bà Phan Yến Ly, Giám đốc Công ty Tư vấn, Truyền thông và Sự kiện Cánh Cam cho rằng, với thế mạnh sẵn có về nông nghiệp và với sự hỗ trợ của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, Việt Nam hoàn toàn có thể có ít nhất 63 sản phẩm du lịch nông nghiệp, nông thôn đặc trưng của từng địa phương.

Hiện tại, loại hình du lịch nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đang phát triển nhưng lại chưa đi đúng hướng và thiếu bền vững. Không chỉ có các sản phẩm sao chép, na ná giống nhau khắp các vùng miền gây ra sự cạnh tranh giữa các địa phương với nhau. Cần tuyên truyền thay đổi tư duy của các chủ thể tham gia xây dựng và triển khai các hoạt động du lịch nông nghiệp, nông thôn phục vụ du khách: Phải làm sao để các bác nông dân, các hợp tác xã, các trang trại muốn làm du lịch ngay cả khi nông lâm thủy sản được tiêu thụ tốt, khi kinh tế nông nghiệp thành công và các doanh nghiệp lữ hành chung tay, đồng hành cùng các điểm đến nông thôn làm du lịch.

Nổi bật những năm gần đây là Chương trình “Mỗi quận, huyện một sản phẩm du lịch đặc trưng” của TP.HCM. Dựa trên tài nguyên thiên nhiên và nhân văn sẵn có của từng địa bàn, các quận, huyện và thành phố Thủ Đức của TP.HCM đã có nhiều ý tưởng mới trong việc xây dựng được các chương trình du lịch đặc trưng, riêng có và không sao chép: “Quận 4 - Cù Lao giữa lòng phố thị”, “Về quận 5 xem múa lân”, “Thủ Đức - Thành phố xanh bên sông Sài Gòn”, “Quận Bình Thạnh - Vùng đất thanh bình”, “Quận Gò Vấp - Trăm năm tìm lại dấu xưa”, “Bình Chánh - Về chốn linh thiêng”; “Về Quận 10, nghe kể chuyện Đông y”…

Có những quận, huyện chưa từng có các hoạt động du lịch cũng bất ngờ về những nét đặc sắc của địa phương mình như “Quận Tân Phú đi là nhớ”, “Quận Phú Nhuận - Nơi ta tìm về”, “Quận 11 - Có một Chợ Lớn rất khác”, “Quận 8 - Vùng đất của những câu chuyện”, “Sắc màu Bình Tân”, “Nhà Bè ngày mới”...

Đặc biệt, mô hình du lịch cộng đồng “Khám phá đảo muối Thiềng Liềng” có khoảng 16 điểm đến với các sản phẩm du lịch mang đặc trưng của hệ sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ và văn hóa của người dân vùng biển như ẩm thực và thức uống vùng biển, không gian nghề muối, không gian hoài niệm, homestay, đờn ca tài tử, ngâm chân thư giãn và tất nhiên là không thể thiếu các hoạt động về muối. Tất cả sản phẩm du lịch này do chính các hộ dân và cư dân đang sinh sống tại ấp đảo Thiềng Liềng thực hiện và đang bắt đầu được khách du lịch quan tâm.

Thực tiễn hiệu quả từ chương trình cho thấy, cách thức tiếp cận này hoàn toàn có thể lan rộng ra các địa phương khác, giúp các sản phẩm du lịch nông nghiệp, nông thôn của các tỉnh/thành không bị trùng lắp, nhàm chán. Từ đó, tránh cạnh tranh không lành mạnh; tạo nên sức hút du khách qua các thông điệp và câu chuyện truyền thông riêng biệt. Các cơ quan quản lý Nhà nước có dịp nhìn lại du lịch nông nghiệp, nông thôn của địa phương mình sâu sát hơn trong việc quản lý cũng như đề xuất cơ chế, chính sách phù hợp.